Theo chuyên gia kinh tế TS. Bùi Trinh, số tiền nợ thuế chưa thu được lên đến 79 nghìn tỷ thì giải pháp thu thuế xe ôm quán cóc là không nên và bất khả thi.
Những con số giật mình
Tổng cục Thuế vừa có công văn số 4965 chỉ đạo công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh nộp thuế khoán năm 2019. Trong đó đưa xe ôm, hộ kinh doanh quán cóc, vỉa hè với ngưỡng thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên vào diện xem xét đánh thuế, gây xôn xao dư luận.
Trả lời PV báo Người Đưa Tin về vấn đề trên, chuyên gia kinh tế, TS. Bùi Trinh cho biết, trong khi ngành thuế chỉ đạo thống kê dữ liệu của người hành nghề xe ôm, bán hàng quán cóc vào diện thu thuế thì một con số khác do ngành thuế đưa ra sẽ khiến dư luận giật mình, đó là số nợ thuế lên đến 79.000 tỷ đồng chưa được thu hồi.
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thuế, tổng số tiền thuế nợ tính đến 30/11/2018 là 79.069 tỷ đồng. Trong đó, tiền thuế nợ có khả năng thu là 43.342 tỷ đồng (nợ dưới 90 ngày là 11.057 tỷ đồng; nợ trên 90 ngày là 32.285 tỷ đồng). Số nợ này chiếm tỷ trọng 54,8% tổng số tiền thuế nợ.
Chuyên gia kinh tế TS. Bùi Trinh.
Bên cạnh đó, tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi (của người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, liên quan đến trách nhiệm hình sự, đã tự giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh, không còn hoạt động tại địa chỉ đăng ký kinh doanh) là 35.727 tỷ đồng.
“Số nợ thuế này vì sao không thu được, ai chịu trách nhiệm? Đây mới là vấn đề ngành thuế cần trả lời trước dư luận, người dân”, TS. Bùi Trinh nhấn mạnh.
Trong khi đó, Tổng cục thuế lại ra công văn tới cục thuế các địa phương đưa xe ôm, quán cóc, kinh doanh vỉa hè với ngưỡng thu nhập từ 100 triệu/năm vào diện đánh thuế. Vấn đề là có cán bộ thuế nào đủ quyết tâm chạy theo một anh xe ôm? Một chị bán hàng rong… để thống kê chính xác thu nhập của họ. Đề xuất bởi vậy chắc chắn sẽ không thực tế, thiếu khả thi.
Gốc rễ của vấn đề
Lý giải về đề xuất trên, TS. Bùi Trinh cho biết, trước hết gốc rễ chỉ đạo của Tổng cục Thuế đến từ sự chênh lệch hai con số, một bên thống kê của Tổng cục Thống kê và một bên từ ngành thuế.
Về nguyên tắc, Tổng cục Thống kê thống kê tất cả các cá nhân kinh doanh, kể cả những người làm tự do, buôn bán nhỏ. Trong khi, cơ quan thuế chỉ quản lý thuế với những hộ có địa điểm kinh doanh cố định. Do mục đích thống kê là khác nhau dẫn đến những sai lệch trong số liệu.
Theo Tổng cục Thống kê, số liệu của điều tra cơ sở kinh tế của Tổng cục Thống kê là cơ sở để ngành thuế nắm, từ đó quản lý thuế sát hơn. Thực tế cũng có những hộ kinh doanh chưa khai đủ, giấu doanh thu dẫn đến thất thu thuế. Tổng cục Thuế đã yêu cầu đưa ngay vào diện quản lý thuế những hộ kinh doanh bị sót kể trên.
Các cục thuế cũng được yêu cầu phải thường xuyên rà soát đảm bảo có dữ liệu giải trình khi có yêu cầu với các cá nhân kinh doanh không thường xuyên, như xe ôm, chủ thầu xây dựng vãng lai, kinh doanh quán cóc vỉa hè, hộ kinh doanh tại các địa điểm tự phát, không được cấp phép hoạt động chính thức như chợ tạm, chợ cóc, xóm, làng, thôn, bản…
Theo TS. Bùi Trinh, việc thu thuế với quán cóc, xe ôm…là không nên và không khả thi.
“Theo tôi, việc sai lệch số liệu là bình thường vì đối tượng thống kê là khác nhau, theo tài liệu hướng dẫn tổng điều tra cơ sở kinh tế năm 2017, cơ quan thống kê khi thống kê đã đưa cả những người kinh doanh hàng rong, xe đẩy, bán xôi, bánh mì, xe cà phê di động, xe ôm hay người kinh doanh thời vụ vào.
Trong khi đó tiêu chí để lập bộ và đưa vào danh sách quản lý thuế đối với cơ quan thuế phải là những người kinh doanh ổn định, có doanh thu hằng năm từ 100 triệu đồng trở lên. Như vậy, đối với những hoạt động kinh doanh dạng trên, cơ quan thuế không thể thu thuế và không nên thu thuế”, ông Trinh bày tỏ.
Ông Trinh cũng thẳng thắn: “Vấn đề không phải cứ có thu nhập là nhăm nhăm đánh thuế mà mức thu nhập bao nhiêu mới đánh thuế. Những người như xe ôm, bán hàng rong, hát rong… là những người không có nghề nghiệp ổn định trong xã hội, thu nhập của những người này vì thế cũng bấp bênh, có khi thu nhập cả đời của họ cũng không bằng số lẻ của thất thoát lãng phí”.
Về vấn đề này, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong bày tỏ lo lắng, vì các đối tượng ngành thuế đề cập phía trên là rất nhỏ, rải rác và không ổn định trong công việc cũng như thu nhập. Việc thu thuế với những đối tượng này theo ông Phong là khó và tính khả thi không cao.
Thậm chí, vị chuyên gia này còn cảnh báo, nếu không có chế tài quản lý bài bản vô tình có thể trở thành kênh để lạm dụng cho những người được giao để thu thuế các đối tượng trên.
Theo Đặng Thủy